LâmTrực@
Người ta thường so sánh to và nhỏ và để đi đến kết luận rằng, to là kẻ mạnh. Điều này không phải bao giờ cũng đúng.
Nếu đem so sánh Trung Quốc và Việt Nam, theo logic đã nói ở trên, Trung Quốc bao giờ cũng là kẻ mạnh. Tuy nhiên, kích cỡ lãnh thổ, dân số đông chưa nói lên nhiều điều.
Hãy hình dung, một gia đình đông con, quản lý giáo dục kém, thì sao có thể sánh với một gia đình nhỏ, ít con nhưng quản lý giáo dục đàng hoàng. Thực tế cũng đã cho thấy điều đó hiện diện ở mọi nơi trong xã hội. Nhật bản Bản là một minh chứng rõ nét trong tương quan so sánh với Trung Quốc. Rõ ràng, Nhật rất mạnh. Đưa lên bàn cân, Trung Quốc liệu thắng được bao nhiêu phần trăm?
Đã vài chục năm qua, từ thời Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc tìm cách lôi kéo các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) để tạo nên một trật tự liên minh mới nhằm củng cố cho tham vọng bá quyền của mình. Công bằng mà nói, họ đã phần nào gặt hái được thành công qua các chuyến công du, ve vãn Myanmar và Capuchia. Vào năm 2010, hai bên đã đồng ý thỏa thuận một chương trình tự do thương mại, tạo ra một trong những thị trường lớn nhất thế giới. Cho đến thời điểm đó dường như mọi thứ – bao gồm cả các vấn đề ngoại giao và thương mại – đã tiến triển một cách rất thuận lợi giữa Trung Quốc và các nước láng giềng phía nam. Ngay cả với Việt Nam, đối thủ cứng đầu của Trung Quốc trong mọi mối quan hệ, cũng được cải thiện rõ rệt. Một số nước ở khu vực này bắt đầu thấy mối đe dọa từ người Hoa đối với kinh tế xã hội và với quốc phòng an ninh cua rhoj không lớn như trước đây.
Tại diễn đàn khu vực năm 2010 ở Hà Nội, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì đã có thái độ nổi giận với các nước chủ nhà Đông Nam Á vì họ lên tiếng ủng hộ lẫn nhau cũng như cố gắng tranh thủ sự ủng hộ của Hoa Kỳ liên quan đến các tranh chấp chủ quyền tại khu vực Biển Đông mà khởi nguồn là do thái độ tham lam của Trung Quốc trong việc vẽ lại bản đồ lãnh hải. Sự tham lam và hung hăng của phía Trung Quốc đã đẩy giới tuyến trên biển đến sát của nhà của các quốc gia láng giềng và điều này dẫn đến nguy cơ những nỗ lực của Bắc Kinh trong vài thập kỷ qua sẽ bị đổ xuống biển.
Dương Khiết Trì tuyên bố một cách điên cuồng rằng: “Có một sự khác biệt lớn giữa chúng ta”, và rằng “Trung Quốc là một nước lớn và các bạn là những quốc gia nhỏ hơn”. Trong phát biểu của mình, Dương Khiết Trì chỉ trích Việt Nam, Indonesia và các nước khác với hàm ý đe dọa trừng phạt về kinh tế cũng như quân sự nếu các nước nhỏ hơn không tuân thủ luật chơi của Trung Quốc đặt ra. Mỉa mai thay, những phát biểu hàm hồ và non nớt về ngoại giao và chính trị của ông Dương không làm cho các nước này lo ngại mà trái lại, làm cho họ xích lại gần nhau và tịnh tiến về phía Hoa Kỳ.
Sau sự kiện này, quan hệ giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á đã nhanh chóng chuyển sang gam màu tối. Trung quốc đã chủ động gây sự và tạo ra các cuộc đụng độ trên biển và các tranh chấp tại Biển Đông với hai nước Đông Nam Á khác là Việt Nam và Philippines. Trong tình thế đó, một số nước khác rà soát lại nội dung của bản thỏa thuận tự do thương mại vì họ cảm thấy rằng phía Trung Quốc chiếm quá nhiều ảnh hưởng.
Ai cũng biết nỗ lực của Bắc Kinh là sử dụng sức mạnh của họ đối với các nước ASEAN yếu thế hơn, như Campuchia và Myanmar để ngăn chặn một mặt trận thống nhất nhưng tác động này đã mang lại hiệu ứng ngược.
Những động thái của Trung Quốc ve vãn Capuchia và Myanmar làm tăng mối nghi ngờ của các nước Đông Nam á. Một kết luận được đưa ra một cách thận trọng rằng Trung Quốc đang tìm cách chia rẽ sự đoàn kết của ASEAN. Trong bối cảnh, các nước như Mỹ, Úc, Ấn Độ, Nga đang ra sức kiềm chế Trung Quốc và vì thế người ta không khó nhận ra mối quan hệ giữa Bắc Kinh và ASEAN đang ngày càng trở nên tồi tệ.
Các nhà quan sát quốc tế cho rằng mâu thuẫn sâu sắc trong giải quyết những tranh chấp lãnh thổ ở khu vực Biển Đông (và quyền khai thác các nguồn tài nguyên ở đây) liên quan đến toàn bộ mối quan hệ giữa Trung Quốc và cả khu vực trong tương lai.
Chính phủ Mỹ đã khuyến cáo thái độ hung hăng của Trung Quốc và khuyến khích các cuộc đối thoại ôn hoà, nhưng Bắc Kinh vẫn làm ngơ và tiếp tục gia tăng các hoạt động gây rối bằng chiêu sử dụng lực lượng quân sự ngụy trang dưới bóng dân sự đề hiếp đáp các nước láng giềng, nhằm buộc họ phải đi theo quỹ đạo của mình. Động thái này, làm cho tất cả nước lớn trong khu vực ASEAN đã tiến lại gần hơn với Washington. Luận điệu cũ rích mà Bắc Kinh luôn rêu rao rằng "đó chỉ là hình thức tự vệ" đã không được dư luận quốc tế và khu vực chấp nhận. Mục đích tối quan trọng dẫn đến Bắc Kinh mạnh tay và thể hiện sự hung hãn của mình với các quốc gia láng giềng như Việt Nam, Philippines hay Nhật Bản, chính là nguồn tài nguyên rất cần cho tương lai phát triển của Trung Quốc.
Giới chức diều hâu trong quân đội Trung Quốc và người dân nước này (đã bị bưng bít thông tin và họ hoàn toàn không được tiếp cận các thông tin chính xác, khách quan) đòi hỏi một lập trường cứng rắn về các vấn đề liên quan đến lãnh thổ, như cuộc xung đột với Nhật Bản tại quần đảo ở Biển Hoa Đông. Một số người đã tỏ ra giận dữ về những nỗ lực của ASEAN trong việc tìm kiếm sự ủng hộ của Hoa Kỳ và rằng Trung Quốc đã không tỏ ra mạnh mẽ giành lại sức ảnh hưởng.
Có một điều quan trọng tác động đến thái độ của Bắc Kinh trong câu chuyện này. Vì lòng tự hào thái quá, Trung Quốc tự cho rằng vị trí của họ trong khu vực là tối quan trọng. Trung Quốc tự xem họ là một nước lớn và muốn các nước khác phải tôn trọng họ một cách tương thích. Và vì thế không ai lạ gì cách hành xử của Trung Quốc trong các cuộc đàm phán ngoại giao với các tuyên bố chủ quyền mạnh mẽ hơn so với các nước khác. Tuy nhiên, cách hành xử của họ đối với ngư dân các quốc gia khác lại mang đậm tính dã man và mang màu sắc của cướp biển nhiều hơn là một anh nhà giàu có học. Với đường lối ngoại giao này trong thời gian dài sẽ không có lợi cho Trung Quốc và theo các nhà phân tích, nó đang kìm hãm và làm suy giảm sức mạnh của Trung Quốc.
Một học giả đến từ Mỹ cho rằng: "Cách tiếp cận của Trung Quốc đối với ASEAN tại Biển Đông chủ yếu nhắm đến các quốc gia có phương hướng ngoại giao chưa trưởng thành và chưa sẵn sàng để đảm nhận vai trò lãnh đạo trong khu vực". Thông điệp trên rõ ràng là ám chỉ Campuchia và Myanmar. Đây là cách làm tương tự như những gì mà Hoa Kỳ đã làm với các đồng minh sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ II chấm dứt. "Chính sách này sẽ không giúp Trung Quốc giành chiến thắng với vai trò chủ đạo trong của họ trong khu vực, và điều này chưa đề cập đến vị trí cường quốc toàn cầu mà họ mong muốn lâu nay".
Thêm vào đó, chính sách chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông lâu nay cũng không rõ ràng. Nước này chính thức tuyên bố cái gọi là “chủ quyền quyền lịch sử” dựa trên các định nghĩa rất mơ hồ, trong đó bao gồm hầu hết diện tích vùng biển phía nam. Chủ quyền đó thường được đưa ra bằng biểu tượng đường “lưỡi bò” chín đoạn trên các bản đồ hàng hải, trong đó họ tự nhận gần như toàn bộ vùng Biển Đông về mình. Các tuyên bố trên hoàn toàn không phù hợp với các quy định pháp luật quốc tế. Hầu như các nhà ngoại giao Trung Quốc đều biết điều này.
Các chuyên gia quan hệ quốc tế đều cho rằng, nếu dựa vào cái gọi là "chủ quyền lịch sử" thì Việt Nam hoàn toàn có quyền đòi hỏi chủ quyền của mình đối với 2 tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây hiện nay của Trung Quốc, vì thực tế lịch sử, Việt Nam đã quản lý trên thực tế 2 tỉnh này trong lịch sử. Tuy nhiên, đây chỉ là câu chuyện vô tiền khoáng hậu và chắc chắn không có hồi kết. Vì thế, điều tốt nhất mà Trung Quốc có thể làm hiện nay là tuyên bố chủ quyền trong khu vực 12 hải lý xung quanh các đảo nhỏ. Theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển thì các đảo nhỏ không có người sinh sống, các nước không có quyền tuyên bố chủ quyền trong khu vực đặc quyền kinh tế trong vòng 200 dặm. Điều này Bắc Kinh nên nhìn nhận một cách tỉnh táo và khách quan hơn.
Thời điểm này ASEAM đang diễn ra tại Lào, một quốc gia mà Bắc Kinh đang ve vãn và thực tế đã tiến hành nhiều hành động được xem là xâm lấn về lãnh thổ một cách hòa bình. Đây cũng là thời điểm thích hợp để Trung Quốc và các nước khác thông qua bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Quy tắc này kêu gọi xây dựng lòng tin vững chắc và các biện pháp ngăn ngừa xung đột, bao gồm giảm các hoạt động quân sự trong khu vực. Cho đến nay, đây là thái độ tích cực nhất mà các nước đã làm được trong vùng biển đầy giông tố này mặc dù Bắc Kinh vẫn nói một đằng làm một nẻo.
Những phân tích trên có thể cho thấy, Trung Quốc có kích cỡ lớn về lãnh thổ và dân số, song hoàn toàn chưa phải là một quốc gia mạnh nếu như thiếu vắng sự quản lý, giáo dục tiên tiến, bớt đi sự hung hãn và lòng tham vô độ của mình.
Theo Blog Tiếng nói của dân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét