Mực tàu - Có lẽ không một nước nào trên thế giới, không một dân tộc nào trên thế giới phải trải qua một lịch sử đấu tranh giành độc lập gian khổ, thảm khốc và kéo dài như dân tộc Việt Nam.
Trong lịch sử hàng ngàn năm chống ngoại xâm, dân tộc Việt Nam đã từng đứng trước 4 kẻ khổng lồ có sức mạnh vô địch, áp đảo và vô cùng tàn bạo, tưởng chừng không thể chống đỡ nổi: 10 năm chống quân đội Tần Thủy Hoàng (218 TCN-208 TCN), ba lần chống quân Mông Cổ (1257-1258, 1284-1285, 1287-1288), 96 năm chống thực dân Pháp (1858-1954), 21 năm chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 – 1975). Xong với bản lĩnh Việt Nam, đất nước Việt Nam chưa bao giờ chịu khuất phục trước bất kỳ quân xâm lược nào.
Quân Tần cực kỳ tinh nhuệ, được xem là đội quân vô địch trong thời điểm đó. Họ gồm thâu 6 nước, thống nhất Trung Hoa, sau đó đem quân Nam tiến, lần lượt chinh phạt thành công các tộc Bách Việt, sau đó tiến đến lãnh thổ Âu Việt. Người Âu Việt dưới sự lãnh đạo của Thục Phán và Dịch Hu Tống, lui vào rừng núi tiến hành chiến tranh du kích và chống trả kiên cường. Sau 10 năm chinh chiến, tình trạng quân Tần lúc này theo sách cổ Sử Ký của Tư Mã Thiên mô tả là: “Đóng binh ở đất vô dụng. Tiến không được, thoái không xong. Đàn ông mặc áo giáp, đàn bà phải chuyên chở, khổ không sống nổi. Người ta phải thắt cổ trên cây dọc đường. Người chết trông nhau.” Quân Tần bị tổn thất nặng nề, sách cổ Hoài Nam Tử của Lưu An mô tả: “Thây phơi máu chảy hàng chục vạn người”. Tại Trung Nguyên, Tần Thủy Hoàng qua đời, Tần Nhị Thế kế vị và ra lệnh bãi binh vào năm 208 TCN.
Thành Cát Tư Hãn từng gọi đội binh mã thiện chiến của mình là: “Vó ngựa Mông Cổ lướt tới đâu, cỏ ở đó không mọc nổi.” Đây là đội quân xâm lược bành trướng thế giới tàn bạo nhất trong thế kỷ 13. Quân đội này đã diệt các nước lớn như Hạ, Kim, Tống, thôn tính Trung Hoa, khuất phục Triều Tiên. Kéo quân gieo rắc ác mộng khắp thế giới, kể cả Trung Đông, châu Âu và Nga, khiến cho những nước phương Tây phải kinh hoàng. Đội quân kỵ xạ và kỹ thuật cưỡi ngựa bắn tên của kỵ binh Mông Cổ là vô địch và hầu như bất khả chiến bại. Tuy nhiên, khi hơn 70 vạn quân Mông Cổ (Lần thứ nhất: 3 vạn quân. Lần thứ hai: 20 vạn quân. Lần thứ ba: 50 vạn quân) kéo vào Đại Việt dưới sự chỉ huy của thái tử Thoát Hoan (Toghan) và các danh tướng từng gieo rắc sợ hãi cho 1/3 thế giới như Ô Mã Nhi (Omar) và Toa Đô (Suodu)…. thì họ đã bị thua to dưới tay thiên tài quân sự Trần Hưng Đạo và quân dân Đại Việt.
Năm 1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha chính thức xâm lược Đại Nam. Với khoảng cách quá xa về trình độ dân trí, phương thức sản xuất và tiềm lực kinh tế quân sự, quân Pháp hầu như dễ dàng đánh đâu thắng đó. Năm 1886, sau khi hoàn toàn đánh bại quân chủ chiến triều Nguyễn, quân nhà Thanh và quân Cờ Đen, Pháp chính thức thiết lập ách thống trị thực dân kiểu cổ điển trên toàn cõi Việt Nam. Bắc Kỳ và Trung Kỳ được xem là xứ “bảo hộ” với triều đình Huế bù nhìn. Nam Kỳ bị xem là xứ thuộc địa chính thức thuộc chủ quyền của Pháp. Năm 1945, quân đội Nhật đảo chính Pháp. Năm 1946, Pháp quay lại tái chiếm Đông Dương. Cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra và kết thúc sau chiến dịch Điện Biên Phủ và sự ký kết của Hiệp định Genève 1954, gần 20 vạn quân Pháp và gần 30 vạn quân ngụy đã bị thất bại trước chủ tịch Hồ Chí Minh, đại tướng Võ Nguyên Giáp, và quân dân Việt Nam, Pháp chính thức công nhận sự độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Đông Dương. Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến thắng quân sự lớn nhất trong cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân suốt 96 năm của Việt Nam. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, một thuộc địa phương Đông thắng cuộc trước một đế quốc phương Tây. Sau sự kiện này, các thuộc địa khác trên thế giới, nhất là ở Á – Phi cũng noi gương đồng loạt nổi dậy.
Thế kỷ 20 nổi lên một thế lực hùng mạnh bậc nhất: Hoa Kỳ, với một thế lực chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa có ảnh hưởng lớn nhất thế giới. Theo tư tưởng Vận mệnh hiển nhiên, Hoa Kỳ đã bắt đầu cuộc bành trướng lãnh thổ mạnh mẽ trên khắp Bắc Mỹ trong thế kỷ 19, bao gồm các hành động xâm lược, diệt chủng, thiết lập chế độ thuộc địa trên các đất đai mới, đến khi thuộc địa đó hội đủ điều kiện thì nhập vào liên bang Hoa Kỳ (như Hawaii, Alaska).
Đến cuối thế kỷ 19, biên giới Hoa Kỳ đã kéo dài đến Thái Bình Dương, và trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ và Thế chiến I đã xác định vị thế cường quốc quân sự toàn cầu của Mỹ. Thế chiến II đã xác định vị thế siêu cường toàn cầu của Hoa Kỳ, là quốc gia đầu tiên phát triển vũ khí hạt nhân, và cũng là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Từ thời lập quốc đến năm 1924, quân đội Mỹ đã trải qua hơn 100 cuộc chiến tranh xâm lược, bình định, và hàng vạn trận chiến lớn nhỏ trong quá trình chinh phục, xâm chiếm, diệt tộc, cướp đất đai của các lực lượng bản địa. Các chủng tộc, dân tộc bản xứ trước đó có hàng chục triệu người, sau hơn 100 cuộc chiến chỉ còn lại chừng mấy trăm ngàn người.
Từ năm 1776 đến năm 1973, quân đội Mỹ đã bình định và dẹp tan khoảng 30 cuộc khởi nghĩa chống chế độ nô lệ, sưu cao thuế nặng và bất công giai cấp.
Từ năm 1835 đến năm 1932, quân đội Mỹ đã tham chiến trong gần 10 cuộc chiến tranh xâm lấn, cướp đất, xung đột quân sự biên giới.
Từ năm 1798 đến 1953, quân đội Mỹ đã chiến đấu trong hơn 10 cuộc chiến tranh ở hải ngoại, đánh đến châu Âu, châu Mỹ Latinh, châu Phi, châu Á và các quần đảo ngoài biển. Bao gồm hai cuộc Chiến tranh Thế giới.
Trong số khoảng 150 cuộc chiến lớn nhỏ đó, quân đội Hoa Kỳ chưa 1 lần thua cuộc.
Cuộc đọ sức lịch sử giữa một trong những dân tộc đánh bại nhiều kẻ thù xâm lược nhất vớimột quân đội đánh bại nhiều đối thủ nhất, bắt đầu.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong bài tham luận “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thắng lợi vĩ đại, bài học lịch sử” trong hội thảo khoa học “Đại thắng mùa Xuân 1975 – Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam” do Bộ Quốc phòng, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh và Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương tổ chức trong hai ngày 14 và 15 tháng 4 năm 2005 đã gợi nhớ và nhấn mạnh lại thời khắc dầu sôi lửa bỏng này: “Dân tộc Việt Nam đứng trước một khó khăn, thử thách chưa từng thấy trong lịch sử”…. và…. “Cuộc kháng chiến chống Mỹ là thử thách lớn nhất, ác liệt nhất đối với dân tộc ta. Chúng ta đã phải đương đầu với đế quốc hùng mạnh nhất, giàu có nhất, tàn bạo, nham hiểm và hiếu chiến nhất. Cuộc chiến tranh kéo dài qua năm đời tổng thống Mỹ với một tương quan lực lượng chênh lệch nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân ta về phương thức sản xuất và tiềm lực kinh tế quân sự.”
Với chiến thắng lịch sử chiến dịch Mùa xuân 1975, chúng ta đã đánh thắng đế quốc hùng mạnh nhất thế giới, buộc Mỹ phải rút quân về nước, non sông thu về một mối.
Với một lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước hào hùng nhưng cũng rất gian khổ, hơn hết dân tộc Việt Nam thấm hiểu nỗi đau của chiến tranh, giá trị của độc lập, tự do. Do vậy, dân tộc Việt Nam muốn giải quyết tranh chấp, xung đột bằng biện pháp hòa bình, nhưng hòa bình không có nghĩa là cam chịu, chấp nhận. Một Việt Nam kiêu hãnh yêu chuộng hòa bình nhưng cũng sẵn sàng sử dụng mọi biện pháp cần thiết để tự bảo vệ mình khi chủ quyền lãnh thổ bị xâm phạm. Việt Nam đã không khuất phục và sẽ không bao giờ chịu khuất phục trước bất cứ một thế lực hung bạo nào vì Việt Nam là nước của những con người không bao giờ chịu khuất phục!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét