Chuyên cung cấp Đèn sưởi nhà tam giá ưu đãi tốt nhất thị trường.

Thứ Tư, 30 tháng 4, 2014

MỸ ĐÃ TỪNG BƯỚC THAY THẾ PHÁP Ở VIỆT NAM NHƯ THẾ NÀO – P2!

Mực tàu - Sau khi trúng cử vào Nhà Trắng lần thứ hai, Tổng thống Mỹ Truman đề ra học thuyết mang tên mình. Học thuyết Truman, coi Liên Xô là đối tượng chủ yếu và lập luận rằng "một số phong trào cách mạng giải phóng dân tộc cũng là tay sai của cộng sản do Moscow điều khiển, sử dụng chiêu bài dân tộc để bành trướng chủ nghĩa cộng sản". Do vậy, chiến lược của Mỹ là phải bao vây và ngăn chặn Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa đồng thời phải chống những phong trào giải phóng dân tộc do những người cộng sản lãnh đạo và ủng hộ những phong trào dân tộc không theo chủ nghĩa cộng sản như các phong trào ở Nam Á, Trung Đông, Đông Nam Á, Đông Bắc Á... Để củng cố lực lượng đồng minh của Mỹ, học thuyết Truman chấp nhận kế hoạch Marshall ở châu Âu. Kế hoạch Marshall do Marshall, quốc vụ khanh Mỹ nêu ra ngày 5-6-1947, nhằm khôi phục lại châu Âu bằng viện trợ Mỹ. Các nước Anh, Pháp, Bỉ, Áo, Hà Lan, Luxembourg, Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển, Ailen, Thụy Sĩ, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ,… đã tiếp nhận với điều kiện giành cho Mỹ những đặc quyền kinh tế theo yêu cầu của Mỹ, ủng hộ chiến lược ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản của Mỹ.

Tổng thống Mỹ Harry S.Truman người
mở đầucan thiệp của Mỹ vào Việt Nam
qua viện trợchiến phí cho Pháp
Thực tế từ năm 1947, Mỹ đã viện trợ cho Pháp theo kế hoạch Marshall và Pháp đã dùng một phần viện trợ đó vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Báo chí Mỹ cho biết: năm 1947 Chính phủ Truman đã cho Pháp vay 160 triệu đôla để mua xe cộ và một số thiết bị liên quan cho chiến trường Đông Dương. Trong văn kiện NSC51 của Bộ Ngoại giao Mỹ gửi Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ (ngày 1-7-1949) có xác nhận, trong năm 1948 khoảng 100.000 quân Pháp với trang bị của Mỹ... đang ở Đông Dương.

Từ cuối năm 1949, khi bối cảnh thế giới đã bắt đầu trở nên căng thẳng, Mỹ chính thức cam kết dính líu vào cuộc chiến tranh của Pháp ở Việt Nam chống lại lực lượng Việt Minh bằng một loạt bước đi liên tiếp: tháng 10-1949, Mỹ cử phái đoàn đầu tiên gồm các đại biểu Quốc hội và cán bộ ngoại giao đến Đông Nam Á, rồi đến Sài Gòn nghiên cứu tình hình. Ngày 28-11-1949, Washington chính thức mời đại diện của Chính phủ Quốc gia Việt Nam sang thăm Mỹ. Bảo Đại cử Bửu Lộc, Chánh văn phòng của Chính phủ Bảo Đại, sang Mỹ.

Trong văn kiện của Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ (NSC.51) do Tổng thống Truman phê chuẩn ngày 30-12-1949, nhấn mạnh sự cần thiết phải ngăn chặn sự Việt Minh ở Đông Dương bằng sự trợ giúp về chính trị, viện trợ kinh tế và quân sự cho Pháp. Giới chiến lược quân sự Mỹ phát hiện thấy lúc này hướng yếu nhất trong chiến lược của Mỹ ở châu Á là Đông Nam Á, một khu vực rộng lớn tiếp giáp với Trung Quốc ở phía nam. Bởi vì “Đông Nam Á có tầm quan trọng về chiến lược, nó kiểm soát cửa ngõ ra vào giữa hai biển Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương”, “Đông Nam Á rất quan trọng đối với Mỹ”…

Sau khi Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ đưa ra ý kiến viện trợ quân sự cho chính quyền Quốc gia Việt Nam thông qua Pháp (ngày 27-2-1950) được Hội đồng tham mưu trưởng liên quân ủng hộ, Mỹ đã để lộ ý đồ muốn ủng hộ Quốc gia Việt Nam bằng cách viện trợ quân sự thẳng cho chính quyền này không thông qua Pháp. Mâu thuẫn giữa Pháp và Mỹ trong chiến tranh Đông Dương lúc này đã bộc lộ công khai và có phần gay gắt.

Máy bay C-119 của Mỹ đang thả lính dù Pháp tại trận
Điện Biên Phủ năm 1954
Từ tháng 7-1950 đến 1-1-1952, Mỹ đã cung cấp cho Pháp gần 300 triệu đôla vũ khí và trang bị quân sự. Tại hội nghị tay ba Mỹ, Pháp, Anh họp ở Paris bàn về các vấn đề Đông Nam Á ngày 28-5-1952, Ngoại trưởng Mỹ Akison nói từ tháng 6-1951 đến tháng 6-1952, Mỹ đã gánh chịu một phần ba (1/3) chi phí cho cuộc chiến tranh của Pháp và Quốc gia Việt Nam ở Đông Dương. Và từ hội nghị này, Mỹ đồng ý tăng thêm 150 triệu đôla trong tài khoá 1952-1953 viện trợ quân sự cho Pháp và Quốc gia Việt Nam. Le Tourneau, đại diện Chính phủ Pháp xác nhận sáu tháng tới viện trợ quân sự Mỹ sẽ chiếm tỷ lệ 40% chi phí chiến tranh ở Đông Dương.

Đến cuối chiến tranh, Mỹ đã cáng đáng 78% chi phí chiến tranh, lên đến trên 1,5 tỷ USD. Đa phần các vũ khí mà quân đội Việt Nam tịch thu được cho đến thời điểm này chính là vũ khí của Mỹ. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Mỹ đã trực tiếp chở khoảng 16 ngàn quân Pháp vào Điện Biên Phủ và hỗ trợ không quân cho Pháp.

Nhưng cuối cùng, công thức viện trợ Mỹ - viễn chinh Pháp – quân bản xứđã phá sản trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương của thực dân Pháp. Pháp đành phải ngồi vào bàn đàm phán tại hội nghị Giơ ne vơ về Đông Dương, công nhận nền độc lập của 3 xứ Đông Dương, rút quân trong 2 năm, ấn định tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam vào năm 1956.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhìn thấy ý đồ của Mỹ ngay từ cuối cuộc kháng chiến chống Pháp. Sau đại thắng Điện Biên Phủ, trong khi quân dân và cán bộ đảng viên ai nấy đều vui mừng phấn khởi thì Bác Hồ lại ưu tư và cẩn thận nhắc nhở đại ý: Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt đầu. Hội nghị ký hiệp định Genève thành công, nhưng chắc chắn sẽ làm cho người Việt Nam chưa vừa ý. Người Pháp có câu “Ai trả tiền, kẻ đó là chủ”. Mỹ sẽ thay thế Pháp, chúng ta phải có sự chuẩn bị để đối phó với Mỹ!

Đến tháng 7 năm 1954, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 6 họp trước khi Hiệp định Genevè được ký kết mấy ngày, thì lúc đó Đảng và Bác Hồ đã đi tới kết luận: Đế quốc Mỹ đang trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Đông Dương.

Từ đó, Đảng và Bác Hồ đã xác định đường lối cách mạng trong giai đoạn này như sau: Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền nhằm mục tiêu chung là chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước.

Ngày 23 tháng 7 năm 1954, nội dung văn bản hiệp định được các Đảng bộ miền Nam phổ biến cho đồng bào: Việt Nam được hội nghị quốc tế long trọng công nhận độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Nhưng trước mắt đất nước phải tạm chia thành hai vùng tập kết quân sự. Miền Bắc đến vĩ tuyến 17 được hoàn toàn độc lập. Miền Nam còn thuộc quyền quản lý của Pháp. Quân đội mỗi bên phải tập kết về vùng của mình quản lý. Sau 2 năm Pháp sẽ rút đi hết và dân Việt sẽ tổ chức tổng tuyển cử trên cả nước để thực hiện thống nhất. Trong thời gian chờ tuyển cử, cấm mọi phân biệt đối xử, trả thù những người đã tham gia phía đối lập, mỗi bên phải bảo đảm thực hành tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh.

Các công sở ngụy quyền và các sĩ quan, binh lính, tề, xã, ấp, nhân viên ngụy quyền của Pháp ở miền Nam thì vui mừng, vì họ thấy vẫn còn “giữ ghế” được, vẫn còn được an vị làm “phụ mẫu chi dân”, vẫn còn các đặc quyền đặc lợi.
Trong niềm vui chung hòa bình được lập lại thì nhiều người dân miền Nam không tránh khỏi nỗi lo: Hiệp định quy định rõ ràng như vậy nhưng liệu quân giặc có chịu thực hiện không? Vì bản chất của thực dân là vẫn vậy không thay đổi, “giang sơn dễ đổi, bản tính khó thay”.

Tại miền Nam, Mỹ nhận lấy chính quyền “Quốc gia Việt Nam” (État du Viêt Nam) của thực dân Pháp. Năm 1955, thay đổi người đứng đầu, đưa “thủ tướng” của “Quốc gia Việt Nam” là Ngô Đình Diệm lên thay Bảo Đại, đổi tên “Quốc gia Việt Nam” thành “Việt Nam Cộng hòa” (Republic of Vietnam), bắt đầu các chuỗi hành động hất cẳng quyền lực của Pháp ra khỏi miền Nam Việt Nam.

Đầu tiên là ngày 23/10/1955, Mỹ-Diệm dàn dựng cuộc “trưng cầu dân ý” gian lận. Cho cảnh sát gõ cửa từng nhà đe dọa và ép người dân đi bầu, bắt giam những người chống lại, cho dân Công giáo di cư 1954 (vốn nhiều người chống cộng và ủng hộ gia đình Diệm) đi đầu “bỏ phiếu” rồi quay phim chụp hình để quảng cáo hình ảnh Diệm với quốc tế.

Ngày 6 tháng 10, “thủ tướng Quốc gia Việt Nam” Ngô Đình Diệm tuyên bố quyết định mở cuộc “trưng cầu dân ý”. Các cơ quan truyền thông do Mỹ cấp chi phí và điều khiển cũng bắt đầu những chiến dịch tuyên truyền bôi bác Bảo Đại và ca ngợi “thủ tướng” Ngô Đình Diệm, với những khẩu hiệu phát đi phát lại như: “Phiếu đỏ ta bỏ vô bì – Phiếu xanh Bảo Đại ta thì vứt đi.

Đó là vì có 2 lá phiếu: Một xanh, một đỏ. Lá màu đỏ in hình Ngô Đình Diệm với câu: “Tôi bằng lòng truất phế Bảo Đại và nhìn nhận ông Ngô Đình Diệm làm Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam với nhiệm vụ thiết lập một chế độ dân chủ”. Lá xanh in hình Bảo Đại thì có câu: “Tôi không bằng lòng truất phế Bảo Đại và không nhìn nhận ông Ngô Đình Diệm làm Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam với nhiệm vụ thiết lập một chế độ dân chủ”.

Ngày 23 tháng 10 năm 1955, việc bỏ phiếu được diễn ra và trở thành trò hề vì ban tổ chức đã sắp xếp để Ngô Đình Diệm tuyệt đối thắng. Ngô Đình Diệm “đắc cử” với “98,2%” số phiếu. Đại tá CIA Edward Lansdale trước đó đã bảo Diệm rằng: “Trong lúc tôi đi vắng, tôi không muốn bỗng nhiên nhận được tin rằng ông thắng 99,99%. Vì nếu như thế thì biết đó là kế hoạch sắp đặt trước”.

Đại tá Lục quân Hoa Kỳ, tiến sĩ Spencer C. Tucker trong sách Encyclopedia of the Vietnam War (Bách khoa thư Chiến tranh Việt Nam) do ABC-CLIO xuất bản năm 2000 và sử gia Stanley A. Karnow trong sách Vietnam: A history (Việt Nam: 1 lịch sử) do Penguin Books xuất bản năm 1997, đã ghi nhận cái gọi là “trưng cầu dân ý” này còn có những gian lận vụng về lộ liễu khác, như ở Sài Gòn, Diệm công bố được “605.025″ phiếu trong khi khu vực này có chưa tới 450.000 cử tri ghi tên.

Sau khi hoàn thành vụ lừa đảo chính trị, Diệm công bố rằng có đến “98,2%” số phiếu ủng hộ ông ta, kết quả là Bảo Đại, tay sai trung thành của Pháp bị phế truất. Còn Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ lên đứng đầu và tự xưng là “tổng thống”. “Quốc gia Việt Nam” đổi tên thành “Việt Nam Cộng hòa”.

Ngày 13/1/1955, Diệm công bố chính thức trên truyền thông rằng Hoa Kỳ từ nay có toàn quyền về vấn đề tổ chức và huấn luyện quân đội Sài Gòn. Ngày 12/2/1955, trong một cuộc họp báo, Ngô Đình Diệm công bố từ nay trở đi tướng John O’Daniel sẽ huấn luyện cho các lực lượng quân đội.

Trước mặt đại diện Hoa Kỳ, các sĩ quan người Việt tổ chức đốt tượng trưng quân hàm, quân hiệu của quân đội Pháp mà họ vẫn đeo tại sân Bộ Tổng tham mưu. Thay vào đó là những phù hiệu kiểu mới của quân đội Mỹ.

Cuối tháng 4/1956, người lính Pháp cuối cùng rút khỏi miền Nam Việt Nam. Mỹ gây sức ép bắt Pháp bàn giao lại phi cơ, tàu thủy, xe cơ giới, dụng cụ chiến tranh cho quân đội ngụy đang được Mỹ tổ chức và huấn luyện.

Phái bộ huấn luyện quân sự hỗn hợp của Pháp – Mỹ (TRIM) trước đây đã chuyển thành “Phái bộ huấn luyện tác chiến lục quân” (CATO – Combat army training organization) gồm toàn người Mỹ. Tháng 9/1955 Mỹ chỉ có 351 sĩ quan chỉ huy ở miền Nam, đến tháng 3/1956 đã lên 1.550 người. Cơ quan trung ương của CATO do tướng Samuel Viliams quản lý, gồm 170 người: 3 cấp tướng, 49 đại tá, 68 trung tá, 50 thiếu tá phân ra nắm mọi ngành. Bên cạnh mỗi bộ tư lệnh quân khu có một đại tá và một số sĩ quan. Mỗi sư đoàn nặng có từ 6 đến 8 đại tá Mỹ, mỗi sư đoàn nhẹ có từ 3 đến 5 trung tá. “Cố vấn” Mỹ lúc này chỉ nắm cấp trung đoàn, chưa nắm cấp tiểu đoàn.

Tiếp tục lộ trình hất cẳng Pháp ra khỏi miền Nam Việt Nam, Mỹ bắt đầu từng bước gạt bỏ các lực lượng vũ trang thân Pháp, dùng “Quân lực Việt Nam Cộng hòa” diệt các lực lượng vũ trang giáo phái được Pháp mua chuộc, trả lương. Đồng thời cũng để làm sạch đi phần nào những vết nhơ, tai tiếng về quá khứ làm quan, làm “thủ tướng” cho thực dân Pháp của Diệm và gia đình.

Ngày 29 và 30/3/1955, Mỹ-Diệm cho một đại đội lính dù chiếm trung tâm cảnh sát, đẩy lùi quân Bình Xuyên thân Pháp của Bảy Viễn về phía Chợ Lớn. Đồng thời mua chuộc cảnh sát trưởng Lại Hữu Sang từng làm việc cho phòng nhì Pháp, và chấm dứt quyền kiểm soát của Pháp và Bình Xuyên đối với trung tâm cảnh sát.

Đối với liên minh Cao Đài, Mỹ-Diệm dùng đô la Mỹ chiêu hàng được Trịnh Minh Thế, rồi dùng ngay Trịnh Minh Thế để đánh bại Bình Xuyên, Bảy Viễn trốn sang Pháp sống lưu vong. Sau đó Mỹ-Diệm giết Trịnh Minh Thế vì cho rằng ông này “khó bảo” và “có tham vọng”.

Con trai Trịnh Minh Thế là ông Trịnh Minh Sơn ở Canada khi trả lời phóng viên Thời báo Asia là Sergei Blagov, tác giả của sách Honest Mistakes: The Life and Death of Trinh Minh The 1922-1955 (Sự sai lầm nhẹ dạ: Cuộc đời và cái chết của Trịnh Minh Thế 1922-1955) do Nova Science xuất bản năm 2001, trong bài “A tale of two assassinations: Vietnam’s JFK” (1 giai thoại của 2 cuộc ám sát: John F. Kennedy của Việt Nam) đăng trên Thời báo Asia (số 22/11/2003), đã cho biết cha của ông bị bắn 2 phát súng, chứ không phải 1 phát như thông tin chính thức mà giới truyền thông Mỹ và Sài Gòn đưa ra lúc bấy giờ. Ông cho biết cha ông đã bị ám sát để ngăn chặn khả năng ông ta trở thành một nhân vật nổi bật đủ sức thách thức vai trò đứng đầu của Diệm.

Đối với lực lượng Cao Đài Tây Ninh, Mỹ cũng nhanh chóng gây chia rẽ và mua được Nguyễn Thành Phương, Lê Văn Tất. Giáo chủ Cao Đài Tây Ninh là Hộ pháp Phạm Công Tắc không chịu cộng tác với Mỹ, đã cùng bộ sậu chạy sang Campuchia lánh nạn.

Ngày 6/5/1955, Mỹ-Diệm đưa quân ngụy đi tảo thanh tàn quân Bình Xuyên ở cầu Chữ Y, cầu Nhị Thiên Đường, Xóm Củi (Chợ Lớn), quân Bình Xuyên thua chạy về Gò Công và rừng Sác. Đến ngày 24/10/1955 thì lực lượng Bình Xuyên hoàn toàn bị tiêu diệt. Riêng quân Bình Xuyên do ông Bảy Môn chỉ huy thì trước đó đã được lực lượng kháng chiến chống Mỹ thuyết phục và đã sớm rút sang Thị Vải để dựa vào cách mạng và đồng bào chống Mỹ-Diệm. Con trai của Bảy Viễn là tham mưu trưởng lực lượng Bình Xuyên cũng tử trận trong chiến dịch này.

Tháng 5/1955, Mỹ-Diệm bắt đầu thanh toán Hòa Hảo. Lực lượng vũ trang Hòa Hảo đến thời điểm này đã có 3 nhóm độc lập với nhau là Trần Văn Soái (Năm Lửa), Lê Quang Vinh (Ba Cụt) và Hai Ngoán. Ngày 20/5/1955, quân ngụy dưới sự chỉ huy của các “cố vấn” Mỹ tập trung lực lượng tổng tấn công vào cả ba nhóm Hòa Hảo.

Ngày 29/5/1955 nhóm của Hai Ngoán sớm đầu hàng. Hai nhóm Năm Lửa và Ba Cụt thất thế liền trốn vào Đồng Tháp Mười lập căn cứ chống Mỹ-Diệm. Cả Năm Lửa và Ba Cụt đều cử người bắt liên lạc với cách mạng để tìm kiếm sự ủng hộ.

Đây là thời cơ để cách mạng duy trì mâu thuẫn giữa Mỹ – Pháp, giữa chính quyền Diệm với lực lượng Năm Lửa – Ba Cụt, kéo dài sự tranh giành đối kháng giữa hai phe thế lực này. Cách mạng đã cử cán bộ trực tiếp gặp Năm Lửa, Ba Cụt và một số viên chỉ huy khác để tranh thủ vận động họ cùng chống Mỹ, kẻ xâm lược mới.

Mùng 3 Tết Bính Thân năm 1956, do bị đánh quá ráo riết, Năm Lửa đem 4.000 quân đầu hàng Mỹ-Diệm. Lực lượng Ba Cụt ở Kiên Giang với nòng cốt là trung đoàn Lê Quang vẫn cố chống giữ.

Ngày 13/4/1956, Ba Cụt bị “phó tổng thống” Nguyễn Ngọc Thơ dùng tình bạn cũ lừa ra Cần Thơ để nhận chức trung tướng và bị Nguyễn Ngọc Thơ cho quân lính bắt ở Chắc Cà Đao. Đến ngày 13/7/1956 Ba Cụt bị xử chặt đầu ở Cần Thơ. Dân gian lúc đó đã ví von sự kiện này như câu chuyện Hồ Tôn Hiến lừa Từ Hải trong Truyện Kiều. Lực lượng vũ trang Hòa Hảo của Ba Cụt một số ra hàng Mỹ, số lớn tan rã, số còn lại khá đông theo về với cách mạng, gia nhập các lực lượng vũ trang kháng chiến.


Sau khi tận diệt Bình Xuyên và các giáo phái, Mỹ lúc này đã yên tâm và không còn phải lo người Pháp quay lại tranh giành với mình. Mỹ-Diệm chuyển sang bình định những vùng tạm chiếm, đàn áp những phong trào đấu tranh chính trị đòi thi hành hiệp định Genève về Đông Dương, hành quân càn quét khắp thôn làng, đánh phá cách mạng, củng cố sự chia đôi Việt Nam.

CÁI CỚ NÀO ĐỂ MỸ ĐEM QUÂN XÂM LƯỢC VIỆT NAM – P1

Mực tàu - Đã 39 năm trôi qua, kể từ khi kết thúc chiến tranh Việt Nam. Nhưng trong tâm khảm mỗi người Việt Nam, đặc biệt là những người được sống, được chứng kiến, được hòa mình vào cuộc chiến oai hùng chống Mỹ cứu nước của dân tộc  vẫn mãi vang vọng bản hùng ca bất diệt.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ là thử thách lớn nhất, ác liệt nhất đối với dân tộc ta. Chúng ta phải đương đầu với một đế quốc hùng mạnh nhất, giàu có nhất, tàn bạo, nham hiểm và hiếu chiến nhất. Cuộc chiến tranh kéo dài qua năm đời tổng thống Hoa Kỳ với một tương quan lực lượng chênh lệch nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta về phương thức sản xuất và tiềm lực kinh tế quân sự.

Tất cả danh nghĩa pháp lý mà Mỹ biện minh cho các hành động quân sự ở Việt Nam là Nghị quyết Đông Nam Á, Luật 88-408 (tên thông dụng là Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ), một nghị quyết được Lưỡng viện Mỹ thông qua ngày 7/8/1964 vì bị lừa dối bởi các báo cáo bịa đặt của tổng thống  và chính phủ, sau khi chính phủ Mỹ công bố cái gọi là “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” vào ngày 4/8/1964.

Ngày 2/8/1964, hải quân và không quân Mỹ xâm phạm vịnh Bắc Bộ và tấn công 3 tàu chiến của Việt Nam, gây thương vong cho 10 chiến sĩ hải quân Việt Nam. Ngày 4/8/1964, người Mỹ tưởng tượng ra một cuộc tấn công trả đũa của Hải quân Nhân dân Việt Nam, rồi công bố nó như là một sự kiện có thật. Sau đó tổng thống Lyndon Johnson và chính phủ Mỹ đã gọi “trận hải chiến” hư cấu này là “Gulf of Tonkin incident” (Sự kiện Vịnh Bắc Bộ).

“Sự kiện” này sau đó đã trở thành danh nghĩa chiến tranh của đế quốc Mỹ, trở thành lời biện hộ cho cuộc chiến của giới diều hâu Mỹ và thuyết phục được Quốc hội Mỹ thông qua Nghị quyết Đông Nam Á, tạo cơ sở pháp lý theo luật pháp Hoa Kỳ để leo thang chiến tranh xâm lược, đổ quân vào Việt Nam cứu nguy cho hệ thống thuộc địa kiểu mới đang rạn nứt lung lay và trên đà sụp đổ.

Có câu: “muốn người ta không biết trừ khi mình không làm”, mọi việc làm sớm hay muộn rồi sẽ bị lột tẩy theo thời gian. Vụ lừa dối về “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” cuối cùng cũng đã được chính những người Mỹ lần lượt làm rõ.

Năm 1981, nhà báo Robert Scheer kiểm tra, đối chiếu lại nhật ký hàng hải của thuyền trưởng Herrick trên tàu chiến USS Maddox DD-731 với báo cáo ngày 4/8/1964  của ông về một vụ “đột kích rõ ràng” của hải quân Việt Nam, thì phát hiện ra trong nhật ký hàng hải của con tàu vốn không có ghi lại sự kiện đó.

Tàu chiến USS Maddox DD-731 của hải quân Mỹ 
Năm 2001, chính phủ Mỹ đã công khai hóa một cuốn băng ghi âm, trong đó tổng thống Johnson khi nói chuyện riêng với các cộng sự vào năm 1965 đã gián tiếp thừa nhận không có tàu chiến Việt Nam nào xuất hiện gần hải quân Mỹ trong ngày 4/8/1964. Johnson nói đùa: “Theo tất cả những gì tôi biết, hải quân của chúng ta đã bắn vào cá voi ở đó”.

Trong phim tài liệu Mỹ The Fog of War (Khói lửa chiến tranh) năm 2003, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara thừa nhận “cuộc tấn công của Bắc Việt” trong ngày 4/8/1964 là chưa bao giờ xảy ra.

Các giải mật sau này khác, trong đó có một bào cáo năm 2005 của Cơ quan An ninh quốc gia Hoa Kỳ - Cục An ninh trung ương (National Security Agency/Central Security Service – NSA/CSS) khẳng định cuộc tấn công đêm 4/8/1964 là không có thật.

Tháng 1/2008, Hiệp hội các Nhà khoa học Hoa Kỳ (FAS) cho biết NSA đã giải mật bản báo cáo Spanrtans in Darkness (Người Xpac –tơ trong Bóng tối), trong đó khẳng định Hải quân Nhân dân Việt Nam không hề tấn công tàu chiến Hoa Kỳ trong đêm 4/8/1964.

Ngày 14/7/2010, Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ và Thượng nghị sĩ John Kerry (từng là ứng cử viên Tổng thống Hoa Kỳ) đã công bố 1.165 trang hồ sơ được giải mật về cuộc chiến Mỹ - Việt. Tài liệu cho thấy, một số thượng nghị sĩ Hoa Kỳ thời đó đã phản đối hoặc thắc mắc về việc họ bị vô hiệu hóa, bị thông tin sai lệch từ chính phủ về sự kiện Vịnh Bắc Bộ. Hồ sơ được giải mật là bản ghi các cuộc điều trần và các cuộc họp trong hai năm 1967 – 1968 do chuyên gia sử học của thượng viện Hoa Kỳ là D. Ritchie ghi lại.

Với cái cớ “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” Mỹ đã sa lầy vào một cuộc chiến hao người, tốn của nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.  Nếu không có sự nghi ngờ và áp lực từ một bộ phận đại biểu trong Quốc hội Mỹ thì có lẽ “cuộc tấn công” tưởng tượng ngày 4/8/1964 đã không bị vạch trần, người dân Mỹ vẫn mãi bị lừa dối, hàng ngàn binh lính Mỹ không biết vì sao mình bị chết!

Thứ Ba, 29 tháng 4, 2014

ĐẤT NƯỚC MÃI TỰ HÀO VỀ CÁC ANH - NHỮNG ANH HÙNG LIỆT SỸ NGÃ XUỐNG CHO NỀN ĐỘC LẬP HÔM NAY

[Me Lo] -  Nghe theo tiếng gọi của non sông , đã có biết bao thế hệ thanh niên Việt Nam nối tiếp nhau cầm súng ra trận chiến đấu để bảo vệ chủ quyền của đất nước. Họ là những chàng trai, cô gái tuổi mới mười chín, đôi mươi. Họ sống với khát vọng của tuổi trẻ, đó là khát vọng được cống hiến. Sinh ra trong cảnh đất nước chịu cảnh lầm than, họ biết sứ mệnh của họ là chiến đấu để giành lại độc lập cho quê hương.





Trong cuộc kháng chiến kiến quốc vĩ đại của dân tộc Việt Nam cũng đã có biết bao thế hệ trẻ “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu” với tinh thần quật cường “xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới dạy tương lai”. Tinh thần anh dũng, kiên cường của lớp lớp các thế hệ chiến đấu bảo vệ nền độc lập của dân tộc đã được đi vào trong thơ ca. Đó là những bài thơ, những câu chuyện đẹp về tấm gương và tinh thần chiến đấu của các anh bộ đội thời đại Hồ Chí Minh.
Là người lính trong cuộc chiến tranh  kiến quốc, xông pha khắp các mặt trận ác liệt thì hẳn trong tâm trí các anh chiến sĩ cũng biết rằng sau mỗi chiến thắng vinh quang lại là những đồng đội đã ngã xuống. Thế nhưng, điều đó sẽ không bao giờ ngăn cản được tinh thần chiến đấu quả cảm của các anh bởi các anh  công việc của các anh sẽ đem lại độc lập, tự do cho thế hệ tương lai của đất nước.Các anh ngã xuống để thế hệ nối tiếp các anh sẽ xây dựng non sông tươi đẹp, giàu mạnh hơn.
Sẽ chẳng thể có một ngôn từ nào và giấy mực có nhiều vô kể cũng sẽ không ghi nổi công ơn của các anh hùng liệt sĩ, các anh thương binh bỏ lại một phần cơ thể ngoài sa trường.
Ngày 30/04/1975 là ngày lịch sử trọng đại của dân tộc Việt Nam, là ngày mà cả non sông Việt Nam vỡ òa trong niềm vui nước nhà được thống nhất, non sông về một mối. Ngày 30/04/1975 chính là ngày mà nỗi khát khao cháy bỏng về giải phóng đất nước của dân tộc Việt Nam vỡ òa.
Được sống trong cảnh đất nước hòa bình, độc lập, thế hệ trẻ ngày hôm nay của đất nước phải luôn luôn ghi nhớ công ơn của các anh hùng liệt sĩ và thường xuyên tìm hiểu về kiến thức lịch sử của dân tộc. Đó là thời đại lịch sử đáng tự hào của dân tộc, đáng tự  hào vì đất nước ta có những người “chân trần chí thép” đã sống, chiến đấu quên mình cho nền độc lập, tự do của dân tộc.
Các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống nhưng các anh sẽ sống mãi với non sông Việt Nam, hồn của các anh đã hòa vào hồn thiêng của sông núi cho đến muôn đời.
Trong giờ khắc thiêng liêng, xin được nói lời cảm ơn các anh hùng liệt sĩ. Đất nước tự hào về các anh. Các mẹ, các chị tự hào về các anh.



ÔNG NGUYỄN VĂN HUYỆN TRỞ THÀNH TÂN TỔNG CỤC TRƯỞNG!

Mực tàu - Vượt qua 3 ứng viên khác trong cuộc thi gay go, quyết liệt, ông Nguyễn Văn Huyện – Chánh thanh tra Bộ Giao Thông Vận tải đã trở thành tân Tổng cục trưởng Tổng cục đường bộ Việt Nam.
Ông Nguyễn Văn Huyện
Theo tin đã đưa, trong hai ngày 25 và 26/4 vừa qua, Bộ GTVT đã tổ chức cuộc thi tuyển ứng viên vào vị trí Tổng cục trưởng Tổng cục đường bộ Việt Nam. Danh sách ứng viên dự thi gồm có các ông: Nguyễn Xuân Cường - Phó tổng cục trưởng Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Nguyễn Văn Huyện - Chánh thanh tra Bộ GTVT, Phạm Hồng Sơn - Tổng giám đốc Ban quản lý dự án 2 (PMU 2), Phạm Hữu Sơn - Thành viên Hội đồng thành viên kiêm Tổng giám đốc Tổng công ty Tư vấn thiết kế giao thông vận tải (TEDI).

Thành phần Ban giám khảo kỳ thi này gồm có ông Nguyễn Hồng Trường - Thứ trưởng Bộ GTVT (Trưởng ban) và các ủy viên là 4 thứ trưởng bộ này, gồm các ông: Nguyễn Văn Thể, Nguyễn Ngọc Đông,Trương Tấn Viên và Lê Đình Thọ. Ngoài ra, các ủy viên trong Ban giám khảo còn có các ông: Lê Quang Vinh - Thạc sĩ, Phó Vụ trưởng Vụ tổng hợp cán bộ, Ban Tổ chức Trung ương; ông Trần Đắc Sử - Phó giáo sư, Tiến sĩ, Hiệu trưởng Trường ĐH GTVT; ông Nguyễn Hoằng - Thạc sĩ, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Đầu tư; ông Hoàng Hà - Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Vụ trưởng Vụ Khoa học - Công nghệ; ông Khuất Minh Tuấn - Thạc sĩ, Vụ trưởng Vụ Kết cấu hạ tầng giao thông; ông Đỗ Văn Quốc - Thạc sĩ, Vụ trưởng Vụ Tài chính; ông Khuất Việt Hùng - Tiến sĩ, Vụ trưởng Vụ Vận tải; ông Trần Xuân Sanh - Thạc sĩ, Cục trưởng Cục Quản lý xây dựng và Chất lượng công trình giao thông; ông Tống Trần Tùng - Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội đồng Khoa học công nghệ Bộ GTVT; ông Nguyễn Văn Nhân - Tiến sĩ, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội khoa học kỹ thuật Cầu đường Việt Nam.

Qua hai ngày thi 25/4 (thi viết) và 26/4 (thi thuyết trình bảo vệ chương trình hành động),  ông Nguyễn Văn Huyện đã xuất sắc đạt tổng số 169,33 điểm cho cả 2 phần thi (phần thi viết đạt 82,43 điểm và phần thi bảo vệ đạt 86,90 điểm). Trong khi đó, ông Nguyễn Xuân Cường đạt tổng số 163,14 điểm; ông Phạm Hồng Sơn đạt 161,40 điểm; ông Phạm Hữu Sơn đạt 160,07 điểm.

Như vậy, với tổng số điểm cao nhất đạt được, ông Nguyễn Văn Huyện đã chính thức trúng tuyển chức vụ Tổng cục trưởng Tổng cục Đường bộ Việt Nam.

Trước thông tin trong dư luận cho rằng, đây chỉ là cuộc thi mang tính hình thức để che mắt mọi người, Bộ trưởng Bộ GTVT đã khẳng định: “Bộ không có bất cứ can thiệp nào liên quan đến việc chọn chức danh này”, “đã định ai thì thi làm cái gì cho tốn kém” – Ông Đinh La Thăng khẳng định.

Ông Nguyễn Văn Huyện sinh ngày 20/3/1962, quê xã Nghĩa Châu, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Ông có bằng Kỹ sư máy xây dựng (Đại học Thủy lợi), Kỹ sư Cầu đường bộ (Đại học GTVT) và Thạc sỹ quản trị kinh doanh.

Ông Nguyễn Văn Huyện đã từng trải qua nhiều vị trí công việc khác nhau và giữ các chức vụ từ đội trưởng, giám đốc xí nghiệp và Phó giám đốc, Giám đốc các công ty xây dựng công trình giao thông. Từ năm 2007 - 2009, ông Nguyễn Văn Huyện giữ chức vụ Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông 4 (Cienco4), rồi giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quản trị Cienco4 từ năm 2009 - 2012. Từ tháng 9/2012 đến nay ông Nguyễn Văn Huyện giữ chức vụ Chánh Thanh tra Bộ GTVT.


Ông Nguyễn Văn Huyện đã trải qua một kỳ thi công khai, minh bạch nhưng cũng không kém phần gay go, quyết liệt. Năng lực và phẩm chất của ông đã được khẳng định. Trên cương vị mới, ông sẽ còn rất nhiều việc phải làm để đáp lại sự kỳ vọng của Đảng, Chính phủ và nhân dân.

Thứ Hai, 28 tháng 4, 2014

QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN ĐƯỢC ĐỀ CAO TRONG BẢN HIẾN PHÁP SỬA ĐỔI NĂM 2013

[Mực Tàu] - Vừa qua, Đảng và Nhà nước đã kêu gọi toàn dân góp ý để sửa đổi bản Hiến pháp năm 1992. Đây là lần sửa đổi mang ý nghĩa lớn, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, bảo đảm tính ổn định lâu dài của bản Hiến pháp, cả về hình thức và nội dung. Đây là sự kiện chính trị - pháp lý cực kỳ quan trọng, mang tính lịch sử, mở ra một giai đoạn cách mạng mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với tinh thần chủ động hội nhập quốc tế theo đường lối đổi mới của Đảng. Với tinh thần đó, bản Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã và đang tạo ra một nguồn sinh khí mới trong một thời đại mới, nó thu hút mạnh mẽ trí tuệ, nguồn lực của nhân dân, tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.


(97,59% đại biểu Quốc hội nhất trí thông qua Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi)

Hiến pháp có nhiều điểm mới, trong đó, trước hết đã thể chế hóa đầy đủ hơn, sâu sắc hơn quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đề cao chủ quyền nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và đảm bảo tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Đây là quan điểm nền tảng xuyên suốt nội dung của Hiến pháp sửa đổi năm 2013, chỉ rõ nguồn gốc, bản chất, mục đích, sức mạnh của quyền lực Nhà nước ta là ở nhân dân, thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước.

Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã khẳng định mạnh mẽ “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”. Ngay từ Lời nói đầu đã khẳng định rằng nhân dân Việt Nam là chủ thể “xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này”. Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước, không chỉ bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân mà còn bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, bằng quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, trong đó có trưng cầu ý dân về Hiến pháp. Đây là điểm nhấn quan trọng để khẳng định Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm đến quyền làm chủ thực sự của nhân dân.

Một trong những thành công lớn nhất của Hiến pháp năm 2013 là  về “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được đề cao và khẳng định trong Hiến pháp (Chương II). Đây vừa là sự kế thừa Hiến pháp năm 1946; vừa thể hiện nhận thức mới đầy đủ, sâu sắc hơn trong việc thể chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đề cao nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã khẳng định nguyên tắc Nhà nước “công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”; “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”.

Đây là những nguyên tắc căn cốt nhằm đề cao trách nhiệm của Nhà nước trong mối quan hệ với quyền con người, quyền công dân; phòng ngừa sự tùy tiện cắt xén, hạn chế, cho chỗ này, lấy lại ở chỗ khác từ phía các cơ quan Nhà nước, nhân viên Nhà nước. Đây cũng chính là cơ sở pháp lý cao nhất để mọi người và công dân bảo vệ và thực hiện quyền con người và quyền công dân của mình. Trên cơ sở của các nguyên tắc căn bản này, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó có bổ sung một số quyền mới một cách chặt chẽ, chính xác, khả thi, phù hợp với các công ước quốc tế về nhân quyền mà Nhà nước ta tham gia. 





CẦN ĐƯỢC NHÂN RỘNG!

Đò Ngang - Trong hai ngày 25 và 26/4 vừa qua, Bộ giao thông vận tải ngập tràn không khí thi cử, khi Bộ này tổ chức cuộc thi chưa từng có trong tiền lệ của ngành này và cũng chưa từng diễn ra ở các ngành khác – cuộc thi tuyển chức danh Tổng cục trưởng Tổng cục đường bộ Việt Nam. Bộ GTVT tổ chức cuộc thi với mục đích tìm ra được người tài giỏi ngồi vào vị trí cao nhất của Tổng cục đường bộ Việt Nam hiện nay.

Tham dự cuộc thi chức danh Tổng cục trưởng lần này có 4 thí sinh là cán bộ đang công tác tại Bộ GTVT và các đơn vị trực thuộc gồm: Ông Nguyễn Văn Huyện, Chánh thanh tra Bộ GTVT, ông Nguyễn Xuân Cường, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục đường bộ Việt Nam, ông Phạm Hồng Sơn, Tổng giám đốc Ban quản lý dự án 2 và ông Phạm Hữu Sơn, Tổng giám đốc công ty Tư vấn thiết kế giao thông vận tải. Thành phần Ban giám khảo có 15 người, trong đó, thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Hồng Trường làm trưởng ban.

Các thí sinh dự thi
Trong khi nhiều đơn vị, cơ quan, tổ chức của chúng ta hiện nay đặc biệt là các cơ quan, tổ chức trong bộ máy hành chính Nhà nước vẫn đang đề bạt cán bộ lãnh đạo theo kiểu bỏ phiếu tín nhiệm hoặc chỉ định. Điều này, sẽ gây ra một cuộc chạy đua tranh cử hòng lấy được lòng mọi người hoặc sẽ gây ra tình trạng “chạy cửa” quan trên để mong được “giúp đỡ”. Với cách tổ chức cán bộ như vậy thì những người tài giỏi dám đứng ra đấu tranh chống tiêu cực thì lại bị trù dập, không được trọng dụng, trong khi đó những kẻ dốt nát, xu nịnh, suốt ngày không lo công việc chuyên môn chỉ lo lấy lòng mọi người, lấy lòng lãnh đạo thì lại được đề bạt làm lãnh đạo. Đó là nguyên nhân sinh ra hàng loạt các cán bộ lãnh đạo yếu kém về năng lực chuyên môn và phẩm chất chính trị, đạo đức, mà theo Nghị quyết số 12-NQ/TW – Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 BCH TW Đảng (khóa XI) chỉ rõ: “Một bộ phân không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãnh phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”. Việc Bộ GTVT tổ chức cuộc thi tuyển Tổng cục trưởng Tổng cục đường bộ được xem là bước đột phá trong khâu tổ chức cán bộ ở nước ta hiện nay. Nó thể hiện sự minh bạch và công bằng đối với tất cả mọi người.

Các thí sinh lần lượt thuyết trình trong phần thi Bảo vệ chương trình hành động
Theo ông Nguyễn Hồng Trường – Thứ trưởng Bộ GTVT cho biết Hội đồng Ban giám khảo: “thi tuyển Tổng cục trưởng Tổng cục đường bộ lần này chúng tôi sẽ tiến hành đánh giá lại các quy trình thực hiện công tác tổ chức thi và có rút kinh nghiệm. Sau khi chúng tôi đánh giá được toàn diện rồi thì Bộ sẽ tiếp tục tiến hành việc thi tuyển tiếp các chức danh còn lại trong Bộ nếu thấy điều kiện đó là cần thiết với các chức vụ đó và có liên quan đến các hoạt động chung của nhiều lĩnh vực”.

Các phóng viên báo chí đưa tin cuộc thi 
Việc công khai tìm người tài giỏi không phải là chưa từng có trong lịch sử Việt Nam. Còn nhớ, từ thời Hùng Vương thứ 6, trước thế giặc mạnh như trẻ tre, vua Hùng Vương đã phải truyền cho sứ giả đi tìm người tài giỏi trong dân ra giúp vua đánh giặc cứu nước… Rồi đến Triều Nguyễn, cứ ba năm một lần triều đình lại tổ chức thi Hương, rồi thi Hội, thi Đình để tìm người tài giỏi ra làm quan giúp vua trị vì đất nước…Nhưng kể từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến nay, việc thi tuyển cán bộ vào vị trí lãnh đạo là chưa từng có trong tiền lệ các Bộ, ngành tại Việt Nam. Việc tổ chức thi tuyển cán bộ lãnh đạo cấp cao của Bộ GTVT lần này không chỉ là đi đầu mà điều quan trọng là đáp ứng được nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân, tạo ra một luồng gió mới trong công tác tổ chức và quản lý ở nước ta hiện nay.


Thiết nghĩ đây là cách làm hay cần được nhân rộng sang các Bộ, ngành và lĩnh vực khác. Vẫn biết Bộ GTVT có những đặc thù riêng nhưng Bộ GTVT làm được thì không có lý do gì mà các Bộ khác không làm được. Nếu cách làm này được nhân rộng sang tất cả các Bộ, ngành khác thì chắc chắn chúng ta sẽ giảm thiểu được tình trạng tham nhũng, chạy chức, chạy quyền đang là vấn đề nhức nhối của cả nước hiện nay.

Chủ Nhật, 27 tháng 4, 2014

ĐÁNG PHẢI NỂ TRỌNG!

Kin Kin - “Tôi muốn từ chức sớm hơn nhưng xử lý vụ việc là ưu tiên hàng đầu và tôi nghĩ cần phải có trách nhiệm giải quyết trước khi ra đi”, đó là câu nói của Thủ tướng Hàn Quốc Chung Hong - won khi tuyên bố từ chức vào sáng hôm qua 27/4.

Thủ tướng Hàn Quốc Chung Hong - won cúi đầu nhận lỗi
trong cuộc họp báo sáng ngày 27/4/2014
Như tin đã đưa, vào khoảng 9 giờ sáng ngày 16/4, Chiếc phà Sewol trở 476 người, trong đó 325 người là học sinh tại một trường trung học ở Ansan, tỉnh Gyeonggi di chuyển từ cảng Incheon tại tây bắc Hàn Quốc tới hòn đảo nghỉ dưỡng Jindo đã gặp nạn tại vùng biển ngoài khơi đảo Jindo, ở tây nam Hàn Quốc khoảng 20km.

Một ngày sau vụ đắm phà, ông Chung đã đến thăm các phụ huynh có con em mất tích trong vụ chìm phà. Tại đây mặc dù bị các phụ huynh lên án, la ó và ném chai nước vào người nhưng ông không tỏ thái độ trách cứ bất cứ một ai bằng tự trách mình: “Các bạn thân mến, đây không phải là lúc để chỉ trích lẫn nhau mà là thời điểm để hoàn thành chiến dịch cứu hộ và giải thích một cách phù hợp hậu quả của vụ việc. Tôi mong mọi người trợ giúp để vượt qua tình hình khó khăn này”, “Tôi thành thực hi vọng rằng người dân Hàn Quốc và gia đình các nạn nhân vụ chìm phà Sewol sẽ tha thứ và hiểu cho tôi vì không thể hoàn thành nhiệm vụ cho tới cùng. Một lần nữa tôi mong các bạn ủng hộ các chiến dịch cứu hộ”, Thủ tướng Hàn Quốc nói.

Nguyên nhân của vụ chìm tàu đã xác định do lỗi trực tiếp của tổ lái. Tuy nhiên, với trách nhiệm cao nhất của chính phủ, phải gián tiếp qua rất nhiều vị trí trung gian khác liên quan đến tai nạn, ông Chung Hong won đã không đổ lỗi cho bất cứ ai mà đã nhận trách nhiệm về mình: “Tôi xin lỗi vì đã không thể ngăn chặn vụ tai nạn này và không xử lý thích hợp vụ việc sau đó…tôi tin rằng là thủ tướng, tôi chắc chắn phải nhận trách nhiệm và từ chức”.

Tính tới 16 giờ ngày 26/4, ít nhất 187 người đã được xác định thiệt mạng trong vụ chìm phà, và 115 người hiện vẫn đang mất tích.

Trong cuộc họp báo ngắn vào sáng ngày hôm qua 27/4, ông Chung Hong - won đã bất ngờ tuyên bố từ chức: “Tôi quyết định từ chức lúc này để không trở thành gánh nặng cho chính phủ”, “Tôi muốn từ chức sớm hơn nhưng xử lý vụ việc là ưu tiên hàng đầu và tôi nghĩ cần phải có trách nhiệm giải quyết trước khi ra đi”.

Đây là hành động vô cùng đáng kính trọng của ông Chung Hong –wo và nó càng đáng kính trọng hơn khi ông không khỉ vì dám từ bỏ chiếc ghế quyền lực, mà ông còn tỏ ra đau xót, thực sự thấy mình là người có lỗi, có tội khi để xảy ra sự việc đau buồn trên. Một hành động đẹp đáng được cả thể giới nể trọng!

THĂM DINH ĐỘC LẬP NHÂN DỊP 30-4

Mực tàu - Đất nước Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Gắn liền với quá trình lịch sử lâu dài đó, bên cạnh tên tuổi của các anh hùng, liệt sĩ…là các địa danh, công trình – nơi đã diễn ra các trận đánh, các sự kiện sẽ còn sống mãi với thời gian. Chính những nơi này bản thân nó đã ghi lại một cách sống động những sự kiện lịch sử đã diễn ra tại đây.

Nhân dịp kỷ niệm chiến thắng giải phóng miền Nam (30/4/1975 – 30/4/2014), hãy một lần ghé thăm Dinh Độc Lập, hay còn gọi là Dinh Thống Nhất một công trình tọa lạc trên mảnh đất rộng 15ha ngay giữa trung tâm thành phố Hồ Chí Minh. Công trình in đậm dấu ấn thời gian và lịch sử nhưng cũng rất nên thơ và lãng mạn.

Dinh Độc Lập không phải là ý tưởng xây dựng đầu tiên mà nó được xây dựng trên nền Dinh NORODOM sau khi Dinh này bị phá hủy.

Năm 1867, sau khi chiếm được lục tỉnh Nam Kỳ, thực dân Pháp đã cho khởi công xây dựng tại trung tâm thành phố Sài Gòn một Dinh thự làm Dinh Thống đốc và đặt tên là Dinh NORODOM để làm việc. Dinh NORODOM  do kiến trúc sư Hermite, người đã khai sinh ra tòa thị chính Hồng Kông thiết kế. Mặt tiền tòa nhà rộng 80m, thiết kế theo phong cách Tân Barốc thời Đế chế Napoleon III, với mái gãy Mansart, trang trí mắt bò, tràng hoa, hình tượng. Năm 1954, Ngô Đình Diệm và gia đình ở và làm việc ngay trong dinh này. Tháng 2-1962, một sĩ quan không quân ngụy là Phạm Phú Quốc bất mãn chế độ Diệm đã dùng máy bay ném bom, làm dinh bị hỏng nặng. Sau đó Diệm quyết định phá hủy toàn bộ Dinh NORODOM để xây dựng lại một dinh hoàn toàn mới, gọi là Dinh Độc Lập (hay còn được biết đến với tên khác là Phủ Đầu Rồng , phủ Tổng Thống).

Dinh Độc Lập được xây dựng từ năm 1-7-1962 đến ngày 31-10-1966 thì xong. Dinh Độc Lập do kiến trúc sư Việt Nam Ngô Viết Thụ tốt nghiệp hạng ưu ở Rôm (Italia) thiết kế, ông cũng là người Việt Nam đầu tiên từng đạt giải quốc tế Khôi Nguyên La Mã – thiết kế theo phong thủy và kiến trúc phương Đông nhưng lại rất hiện đại. Công binh ngụy đảm nhiệm thi công, gia đình Ngô Đình Diệm tạm thời chuyển sang sống tại Dinh Gia Long (hiện nay là Bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh). Công trình đang xây dựng thì Ngô Đình Diệm bị phe đảo chính giết chết ngày 2/11/1963. Do vậy, ngày khánh thành Dinh 31/10/1966 người chủ tọa buổi lễ là Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia.

Ngô Đình Diệm là người khởi xướng xây dựng Dinh Độc Lập nhưng ông không được sống ở đây một ngày nào, mà người có thời gian sống ở Dinh thự này lâu nhất là Nguyễn Văn Thiệu – Tổng thống Việt Nam cộng hòa (từ 10/1967 đến 21/4/1975). Từ đó, Dinh Độc Lập là cơ quan đầu não của Chính quyền Sài Gòn, là nơi chứng kiến sự can thiệp quân sự của nước ngoài gây chiến tranh tàn khốc ở Việt Nam, là nơi ra đời nhiều chính sách phản lại nhân dân của Tổng thống Việt Nam cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu.

Bằng chiến thắng vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử - mùa Xuân 1975, 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975 lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập và đại diện quân giải phóng tiếp nhận sự đầu hàng vô điều kiện của Tổng thống Dương Văn Minh cùng nội các, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn.

Sau Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất hai miền Nam Bắc tổ chức tại Dinh Độc Lập sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Dinh được vinh dự mang tên mới là Dinh Thống Nhất.

Bước vào cổng Dinh Độc Lập, ấn tượng đầu tiên khi đối với mọi người là thảm cỏ xanh rì, trải rộng xung quanh đài phun nước to và hoành tráng nằm chính diện trước mặt Dinh. Lối vào hội trường rộng và uốn thoai thoải lên cao, được trang trí rất nhiều loại cây kiểng cắt tỉa hình thù lạ mắt. Sảnh trước rộng với cầu thang chính diện trải thảm đỏ dẫn lên lầu 1. Phía ngoài sảnh, bên phải là nơi chiếu những bộ phim tài liệu chiến tranh, bên trái là nơi làm việc của nhân viên. Xung quanh là những cỗ máy chiến tranh hiện đại thời đó, như là: xe tăng, máy bay chiến đấu…

Một số hình ảnh về Dinh Độc Lập

Toàn cảnh Dinh Độc Lập

thảm cỏ phía trước Dinh Độc Lập

Chiếc xe tăng số hiệu 390 của đại đội 4, tiểu đoàn 1, lữ đoàn 203,
 quân đoàn 2, húc đổ cổng chính Dinh Độc Lập vào lúc 10 giờ 45 phút ngày 30/4/1975

Chiếc xe tăng 843 của đại đội 4, tiểu đoàn 1, lữ đoàn 203,
 quân đoàn 2, húc nghiêng cổng phụ Dinh Độc Lập

Chiếc máy bay F5E do Mỹ sản xuất và trang bị cho quân đội Sài Gòn cũ được phi công phản chiến Nguyễn Thành Trung (đảng viên ĐCS Việt Nam được bố trí trong lực lượng không quân địch) sử dụng ném bom xuống Dinh Độc Lập lúc 8 giời ngày 30/4/1975

Phòng tiếp khách trong nước của Tổng thống Việt Nam cộng hòa ngày đó

Phòng làm việc của Nguyễn Văn Thiệu bố trí tại phía trái, tầng 2 Dinh Độc Lập

Phòng ngủ của Tổng thống Việt Nam cộng hòa được bố trí trong hầm ngầm

Đài phát thanh dự phòng được bố trí dưới hầm ngầm của Dinh, có khả năng
phát sóng ngay sau khi đài chính ở mặt đất bị tấn công

Cờ, con dấu và một số huy chương của chế độ ngụy cũ

NHÀ ĐIÊU KHẮC TRẦN VĂN THỨC LẠI LÀM NỨC LÒNG DÂN VIỆT!

Hình ảnh chân thực về Đại tướng
[Đò Ngang] - Nói đến nhà điêu khác Trần Văn Thức có lẽ với ai yêu nghệ thuật và yêu lịch sử sẽ không thể không biết đếnn những tác phẩm làm sống dậy những giá trị lịch sử dân tộc, như tác phẩm “sức mạnh Việt Nam”, “tượng chân dung” đại tướng Võ Nguyên Giáp. Các tác phẩm này đã thể hiện chân thật cả về hình dáng đến thần thái, khiến người xem luôn cảm giác có một thứ sức mạnh của dân tộc ngập tràn trong đó.

Ngày hôm nay (27/4) ông lại tiếp tục cho người xem không khỏi xúc động, bàng hoàng với tác phẩm có thể nói là thành công nhất trong sự nghiệp điêu khắc của mình, đó là bức tượng mô phỏng lại hình ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp đang ngồi làm việc. 
Hình ảnh du khách ngắm nhìn tượng Đại tướng

Tác phẩm của ông đã được triển lãm tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam trong đúng dịp Bảo tàng khai mạc triển lãm “Điện Biên Phủ-Đại tướng- Tổng tư lệnh Võ Nguyên giáp qua các tác phẩm nghệ thuật.

Tác phẩm về Đại tướng được mô phỏng với tỉ lệ 1:1 (tỉ lệ thực) bằng chất liệu silicon. Khách tham quan đã không giấu nổi sự ngỡ ngàng khi ngắm nhìn chân dung Đại tướng đang ngồi làm việc. Với tỉ lệ thật, với thần thái quắc thước và trần đầy sức mạnh đã khiến cho tất cả người xem cảm thấy như Đại tướng vẫn ở quan ta, nó thật gần gũi và ấm áp.

Nhà điêu khắc Trần Văn Thức cho biết: “Với lòng tôn kính, ngưỡng mộ tài và đức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tôi đã dồn toàn bộ tâm huyết của mình để thực hiện tác phẩm này trong khoảng thời gian 6 tháng. Điều khó khăn nhất trong suốt quá trình thực hiện đó là việc tôi chưa từng gặp Đại tướng ngoài đời. Do vậy trước khi bắt tay vào làm, tôi phải mất khá nhiều thời gian để gặp những người thân trong gia đình, những cộng sự thân cận đã từng làm việc với Đại tướng và những nhiếp ảnh gia đã từng chụp ảnh về người”.

Chưa từng gặp Đại tướng mà lại thể hiện được thần thái của Đại tướng đến vậy, để thấy ở nhà điêu khác Trần Văn Thức không chỉ có tài năng nghệ thuật mà với ông Đại tướng đã trở thành một phần trong tâm thức, chỉ có sự tôn kính, ngưỡng mộ tài đức của Đại tướng mới tạo ra những tác phẩm thần kỳ đến vậy.

Đây là triển lãm được Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử học Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam, Hội quán Di sản phối hợp thực hiện. Du khách vào tham quan sẽ có dịp hồi nhớ lại những hình ảnh về Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua lời kể xúc động của Giáo sư Vũ Khiêu và ông Võ Hoài Nam (con trai của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)

Triển lãm sẽ kéo dài đến hết ngày 10/5.

Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2014

Kông Kông (Danlambao) LÀ KẺ MẤT GỐC!

Mực tàu - Cứ mỗi độ tháng tư về, cả nước ta lại tưng bừng kỷ niệm chiến thắng lịch sử 30/4/1975 – là dịp nhân dân cả nước tự hào về một đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất – một đội quân đã cùng toàn Đảng, toàn dân làm nên một cuộc tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh đưa non sông thu về một mối.

Tinh thần giải phóng miền Nam 30-4, và quốc té lao động 1- 5 bất diệt
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc trọng tình, trọng nghĩa. Từ những ngày đầu đi học, chúng ta đã được dạy những câu thành ngữ, tục ngữ vô cùng sâu sắc: “Con người có tổ có tông, như cây có cội như sông có nguồn”, hay như: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn”, và là người Việt Nam, ai lớn lên mà không được nghe những lời ru à ơi, của bà, của mẹ: “Núi cao bởi có đất bồi, núi chê đất thấp núi ngồi ở đâu; Muôn dòng sông đổ biển sâu, biển chê sông bé biển đâu nước còn”... Và còn rất nhiều, rất nhiều nữa. Đây là những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao mà ông cha chúng ta từ thuở dựng nước, trải qua quá trình lao động, dựng nước và giữ nước, bằng kinh nghiệm sống của mình đã đúc kết nên để răn dạy con cháu sau này rằng chúng ta phải biết và nhớ về nguồn cội của mình, có được ngày hôm nay chúng ta phải biết biết ơn công lao của các thế hệ đi trước…

Kỷ niệm chiến thắng 30/4, không phải dân tộc Việt Nam muốn gợi lại thù oán xưa cũ, cũng không phải dân tộc Việt Nam muốn gợi lại đau thương ngày xưa…Kỷ niệm 30/4 là dịp để toàn thể dân tộc Việt Nam tỏ lòng biết ơn và tri ân các anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống cho nền độc lập của dân tộc, là dịp để chúng ta nhắc nhở thế hệ trẻ không bao giờ được quên những đau thương, mất mát do chiến tranh gây ra để từ đó giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho các lớp lớp thế hệ trẻ noi theo. Nhìn lại quá khứ để xây dựng tương lai tốt đẹp hơn, quá khứ vừa là bài học vừa là động lực để chúng ta xây dựng một tương lai tươi sáng, hướng tới một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

Vậy mà cái thằng dân lợn Kông Kông (Danlambao) nó lại cho rằng: ““… , nếu tình trạng VN hiện tại thực sự tốt đẹp hơn miền Nam trước kia thì ngày 30/4, theo tiến trình tự nhiên, tự nó đã bị chìm vào quên lãng! Nếu chế độ bây giờ thực sự tốt đẹp hơn thời VNCH thì đã hẳn không ai còn muốn nhắc lại quá khứ 39 năm trước…!”Kông Kông ah! Mày có biết rằng, mày được sống trong xã hội ngày hôm nay là do xương máu của bao anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống để giành lại được, trong đó, rất có thể có cả xương máu của những người máu mủ, ruột già với mày. Vậy mà mày lại có những lời lẽ như vậy, mày có xứng đáng với tổ tiên của mày không? có xứng đáng với những hy sinh xương máu của các anh hùng, liệt sĩ không? Chắc hẳn các bậc tổ tiên của mày nơi suối vàng cũng cảm thấy rất hổ thẹn vì sinh ra một đứa cháu chắt như mày!!!

Đất nước Việt Nam ngày nay đã phát triển nhanh chóng, đời sống người dân không ngừng được nâng cao về mọi mặt, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao rõ rệt. Đó là một thực tế mà ai ai cũng thấy…Việt Nam hôm nay, và cho dù sau này Việt Nam có phát triển mạnh mẽ hơn nữa cũng đều do công lao to lớn đầu tiên cũng sẽ thuộc về các bậc anh hùng, liệt sĩ đã giành lại được. Toàn thể dân tộc Việt Nam sẽ khắc cốt ghi tâm công lao to lớn ấy, và mãi tự hào về một dân tộc anh hùng, một đất nước anh hùng –
Nước chúng ta,

Nước những người chưa bao giờ khuất…