Mực tàu - Để thực hiện kế hoạch đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân, đế quốc Mỹ xác định, phải “có một chiến dịch khiêu khích Bắc Việt Nam” để tạo cớ. Với ý đồ đó, ngày từ 2/3/1964, Mỹ cho tàu khu trục tuần tiễn ven biển miền Bắc Việt Nam vừa trinh sát vừa thăm dò ta và hậu thuẫn cho hải quân Ngụy đánh phá các đảo vùng dân cư ven biển các tỉnh khu 4; cho máy bay do thám vùng trời, cho tàu thả biệt kích nhằm phá hoại, ngăn cản tiếp tế của ta từ Bắc vào Nam; đánh phá tàu cá của ngư dân… gây hoang mang trong nhân dân;
Ông Lê Anh Tài nguyên là lính radar thuộc lực lượng hải quân Việt Nam đóng tại sông Gianh (Quảng Bình), đơn vị có nhiệm vụ quản lý bờ biển từ Thanh Hóa vào Bình – Trị - Thiên cho biết: Ngày 31/7/1964 radar của ta phát hiện con tàu khu trục USS Maddox DD-731 đi dọc bờ biển từ phía Nam ra, khoảng cách giữa tàu và bờ chỉ là 3 hải lý. Sau khi vượt qua vĩ tuyến 17, con tàu tiếp tục di chuyển sâu hơn vào vùng biển do miền Bắc quản lý, liên tục có những hành động khiêu khích, bắn phá tàu đánh cá của ta trên biển. Tuy nhiên phía ta vẫn kiềm chế, theo dõi chặt chẽ sự di chuyển của tàu Maddox. Khi chúng đi sâu vào vùng biển do miền Bắc quản lý tại Lạch Trường (Thanh Hóa), đơn vị hải quân ở đây được lệnh đánh đuổi tàu Maddox ra khỏi thềm lục địa.
Ngày 1/8/ 1964, phân đội tàu phóng lôi của lực lượng hải quân đóng tại Lạch Trường được lệnh xuất kích đánh đuổi tàu Maddox. Phân đội gồm 3 tàu mang số hiệu lần lượt 333, 336 và 339, mỗi tàu được trang bị 2 quả ngư lôi và một súng tiểu liên 12 li 7. Khi 3 tàu phóng lôi của ta tiếp cận thì hỏa lực trên tàu Maddox khai hỏa. Trên bầu trời máy bay Mỹ cũng oanh tạc dữ dội để yểm trợ. Tuy vậy, 3 tàu của ta vẫn chiến đấu ngoan cường, cuộc chiến kéo dài đến chiều ngày 2/8/1964, tàu Maddox trúng ngư lôi của ta tháo chạy ra biển. Trong cuộc chiến này một máy bay của Mỹ cũng đa bị lực lượng của ta bắn hạ. Đây được xem là trận hải chiến thắng lợi đầu tiên của Hải quân Việt Nam .
Ông Tài cho biết thêm: tối 2/8/1964, chúng tôi nghe tiếng súng bắn loạn xạ ngoài biển. Sáng mai, Mỹ rêu rao trên các phương tiện thông tin đại chúng quốc tế là Hải quân Việt Nam bắn tàu Mỹ trên khu vực vùng biển quốc tế. Ngày 4/8/1964, người Mỹ tưởng tượng ra một cuộc tấn công trả đũa của Hải quân Nhân dân Việt Nam , rồi công bố nó như là một dữ kiện có thật. Sau đó tổng thống Lyndon Johnson và chính phủ Mỹ đã gọi “trận hải chiến” hư cấu này là “Gulf of Tonkin incident” (Sự kiện Vịnh Bắc Bộ).
“Sự kiện” này sau đó đã trở thành danh nghĩa chiến tranh của đế quốc Mỹ, trở thành lời biện hộ cho cuộc chiến của giới diều hâu Mỹ, và thuyết phục được Quốc hội Mỹ thông qua Nghị quyết Đông Nam Á, tạo cơ sở pháp lý theo luật pháp Hoa Kỳ để leo thang chiến tranh xâm lược, đổ quân vào Việt Nam cứu nguy hệ thống thuộc địa kiểu mới đang rạn nứt, lung lay và trên đà sụp đổ.
Đây là cơ sở để tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson tiến hành chiến tranh phá hoại tại miền Bắc Việt Nam và leo thang chiến tranh, bắt đầu chuyển đổi chiến lược từ chiến tranh đặc biệtsang chiến tranh cục bộ ở miền Nam Việt Nam .
Vụ lừa dối về “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” được chính người Mỹ lần lượt làm rõ theo các mốc thời gian sau đây:
Năm 1981, nhà báo Robert Scheer kiểm tra, đối chiếu lại nhật ký hàng hải của thuyền trưởng Herrick trên tàu chiến USS Maddox DD-731 với báo cáo ngày 4 tháng 8 của ông về một vụ “đột kích rõ ràng” của hải quân Việt Nam, thì phát hiện ra trong nhật ký hàng hải của con tàu vốn không có ghi lại sự kiện đó.
Năm 2001, chính phủ Mỹ đã bạch hóa một cuốn băng ghi âm, trong đó tổng thống Lyndon B. Johnson khi nói chuyện riêng với các cộng sự vào năm 1965 đã gián tiếp thừa nhận không có tàu chiến Việt Nam nào xuất hiện gần hải quân Mỹ trong ngày 4/8/1964. Johnson nói đùa:“Theo tất cả những gì tôi biết, hải quân của chúng ta đã bắn vào cá voi ở đó.”
Trong phim tài liệu Mỹ The Fog of War (Khói lửa chiến tranh) năm 2003, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara thừa nhận “cuộc tấn công của Bắc Việt” trong ngày 4 tháng 8 năm 1964 là chưa bao giờ xảy ra.
Các giải mật khác sau này, trong đó có một báo cáo năm 2005 của Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ/Cục An ninh Trung ương (National Security Agency/Central Security Service – NSA/CSS) khẳng định cuộc tấn công đêm 4/8/1964 là không có thật.
Tháng 10 cùng năm, Thời báo New York (New York Times) đã cho biết ông Robert J. Hanyok, chuyên viên sử học của Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ (NSA), đã kết luận rằng cơ quan này đã từng cố tình bóp méo các báo cáo tình báo với ngành lập pháp (quốc hội) về sự kiện Vịnh Bắc Bộ.
Tháng 1 năm 2008, Hiệp hội các Nhà khoa học Hoa Kỳ (FAS) cho biết NSA đã giải mật bản báo cáo Spartans in Darkness (Người Xpác-tơ trong Bóng tối), trong đó khẳng định Hải quân Nhân dân Việt Nam không hề tấn công tàu chiến Hoa Kỳ trong đêm 4 tháng 8 năm 1964.
Ngày 14/7/2010, Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ và Thượng nghị sĩ John Kerry (từng là ứng cử viên Tổng thống, hiện là Bộ trưởng ngoại giao), chủ tịch Ủy ban, đã công bố 1.165 trang hồ sơ được giải mật về cuộc chiến Mỹ – Việt. Tài liệu cho thấy, một số thượng nghị sĩ Hoa Kỳ thời đó đã phản đối hoặc thắc mắc về việc họ bị vô hiệu hóa, bị thông tin sai lệch từ chính phủ về sự kiện Vịnh Bắc Bộ. Hồ sơ được giải mật là bản ghi các cuộc điều trần và các cuộc họp trong hai năm 1967-1968, do chuyên gia sử học của Thượng viện Hoa Kỳ là D. Ritchie ghi lại.
Trong một phiên họp khác, thượng nghị sĩ Al Gore (cựu phó Tổng thống, ứng cử viên Tổng thống) cảnh báo: “Nếu đất nước này bị lừa dối, nếu Ủy ban này, Quốc hội này cùng bị lừa dối vì bị người ta dựng lên một sự kiện không có thật để tiến hành một cuộc chiến tranh làm hàng ngàn thanh niên bị chết vô nghĩa, và còn nhiều ngàn người nữa bị tàn tật suốt đời, thì đất nước đó đã mất đi uy tín, đạo đức, vị thế trên thế giới, và hậu quả sẽ rất nặng nề”.
Như vậy, các hoạt động quân sự của Mỹ ở Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn 1965-1973, là vi phạm luật pháp Hoa Kỳ, lừa dối Quốc hội, và sử dụng quân đội Mỹ ở Việt Nam một cách bất hợp pháp theo luật pháp của chính Hoa Kỳ. Có lẽ vì vậy mà cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam mới bị nhân dân Mỹ chống đối với mức độ cao như thế, nhất là trong giới trí thức, luật gia.
Phong trào chống Chiến tranh Việt Nam tại Mỹ có tầm vóc quy mô và có sức lan tỏa hơn hẳn so với các cuộc chiến khác của Mỹ. Nhiều người Mỹ mơ hồ nhận ra đây là một cuộc chiến có gì đó mờ ám, bất hợp pháp, không minh bạch ngay từ đầu, dù lúc đó các hồ sơ về sự kiện Vịnh Bắc Bộ chưa được đưa ra ánh sáng. Nếu không có sự nghi ngờ và áp lực từ một bộ phận đại biểu trong Quốc hội Mỹ thì có lẽ “cuộc tấn công” tưởng tượng ngày 4/8/1964 đã không bị phát hiện và vạch trần.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét