Kin Kin - Hội nghị Genève (Thụy Sỹ) khai mạc ngày 26/4/1954, mục đích ban đầu của hội nghị này là bàn về khôi phục hòa bình tại Triều Tiên và Đông Dương. Phái đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến Thụy Sỹ dự Hội nghị Genève về Đông Dương do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu. Do vấn đề Triều Tiên không có kết quả, từ ngày 8/5/1954, Hội nghị Genève chuyển sang bàn về vấn đề Đông Dương. Quá trình đám phán diễn ra căng thẳng do lập trường của các bên còn cách biệt lớn. Chiến thắng Điện Biên phủ 7/5/1954 đánh bại ý chí duy trì Đông Dương là lãnh thổ thuộc Liên hiệp Pháp của Pháp, tác động rất lớn đến quá trình đàm phán tại hội nghị. Cuối cùng, sau hơn 2 tháng đấu tranh trên bàn đám phán, ngày 21/7/1954, Thiếu tướng Delteil thay mặt Bộ tư lệnh Quân đội Liên hiệp Pháp ở Đông Dương đặt bút ký Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Đông Dương. Người thay mặt Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam ký bản hiệp định là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu.
Các bên tham gia đàm phán tại Hội Nghị Genève (Thụy Sỹ) 1954 |
Các thế lực thù địch chống phá Việt Nam luôn xuyên tạc cho rằng Hiệp định Genève là hiệp định chia đôi đất nước Việt Nam . Vậy sự thật của Hiệp định Genève là gì?
Hiệp định Genève về Đông Dương năm 1954 có hai phần: Phần “Thỏa hiệp” và phần “Tuyên bố Cuối cùng” (Final Declaration).
Phần “Thỏa hiệp”, gồm 47 điều khoản, được ký kết giữa Henri Delteil, Quyền Tổng tư lệnh lực lượng Liên hiệp Pháp và Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng quốc phòng VNDCCH. Phần này có những điều khoản chính như sau:
- Thiết lập một đường ranh giới quân sự tạm thời tại vĩ tuyến 17 (Provisional Military Demarcation Line) để quân đội hai bên rút quân về: Lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam ở trên vĩ tuyến 17, lực lượng quân đội Liên hiệp Pháp (French Union), bao gồm lính Pháp và lính bản xứ ở dưới vĩ tuyến 17.
- Sẽ có một cuộc tổng tuyển cử tự do trên toàn cõi Việt Nam vào năm 1956. Quân đội Pháp phải rời khỏi Việt Nam trong 2 năm.
Bản “Tuyên bố cuối cùng” gồm 13 đoạn, nói đến cả sự thống nhất và độc lập của 3 nước Đông Dương, trong đó có một đoạn đáng để ý và cực kỳ quan trọng:
Đoạn (6) (Paragraph (6)) nguyên văn như sau:
“Hội Nghị nhận thức rằng mục đích chính yếu của Thỏa Hiệp về Việt Nam là dàn xếp những vấn đề quân sự trên quan điểm chấm dứt những đối nghịch quân sự và rằng ĐƯỜNG RANH GIỚI QUÂN SỰ LÀ TẠM THỜI VÀ KHÔNG THỂ DIỄN GIẢI BẤT CỨ BẰNG CÁCH NÀO ĐÓ LÀ MỘT BIÊN GIỚI PHÂN ĐỊNH VỀ CHÍNH TRỊ HAY ĐẤT ĐAI. Hội Nghị bày tỏ sự tin tưởng là thi hành những điều khoản trong bản Tuyên Ngôn này và trong Thỏa Hiệp ngưng chiến sẽ tạo nên căn bản cần thiết để trong tương lai gần đạt tới một sự dàn xếp chính trị ở Việt Nam”.
Và phần đầu của đoạn (7) (Paragraph (7))nguyên văn như sau:
“Hội Nghị tuyên cáo rằng, về Việt Nam, sự dàn xếp những vấn đề chính trị, thực hiện trên căn bản tôn trọng những nguyên tắc về nền độc lập, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ khiến cho người dân Việt Nam được hưởng những quyền tự do căn bản, bảo đảm bởi những định chế dân chủ được thành lập như là kết quả của một cuộc tổng tuyển cử bằng phiếu bầu kín.” (sẽ tổ chức bầu cử vào tháng 7, 1956).
Có thể tổng kết nội dung cơ bản của Hiệp ước Genève về Đông Dương như sau:
· Các nước tham gia hội nghị tôn trọng quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Việt Nam – Campuchia – Lào.
· Ngừng bắn đồng thời ở Việt Nam và trên toàn chiến trường Đông Dương.
· Sông Bến Hải, vĩ tuyến 17, được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập kết quân sự. Chính quyền và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (bao gồm cả người miền Nam ) tập kết về miền Bắc; Chính quyền và quân đội Liên hiệp Pháp (bao gồm cả người miền Bắc) tập kết về miền Nam .
· 300 ngày là thời gian để chính quyền và quân đội các bên hoàn thành việc tập trung. Dân chúng được tự do đi lại giữa hai miền.
· 2 năm sau, tức ngày 20 tháng 7 năm 1956 sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do trong cả nước để thống nhất lại Việt Nam .
Thi hành Hiệp định Genève, Chính phủ ta tiến hành chuyển quân tập kết ra Bắc, hàng ngàn người con Nam bộ theo sự điều động của cách mạng đã tập kết ra miền Bắc với niềm tin và hy vọng chỉ sau hai năm sẽ được trở về quê hương yêu dấu. Không ai có thể hình dung được rằng mãi hai mươi năm sau họ mới lại được đặt chân về đôi bờ Đồng Nai, Vàm Cỏ, Cửu Long…
Nhưng đã không có cuộc tổng tuyển cử nào diễn ra được, Mỹ đã từ hậu trường nhảy ra sân khấu, xuyên tạc nội dung hiệp định và phá hoại việc thi hành hiệp định. Ém nhẹm, xuyên tạc những nội dung chính của hiệp định với người dân, phá hoại các điều khoản chính trong hiệp định, và nghiêm trọng nhất là điều khoản: “Đường ranh giới quân sự là tạm thời và không thể diễn giải bất cứ bằng cách nào đó là một biên giới phân định về chính trị hay đất đai”.
Người Mỹ vốn không ký vào hiệp định Genève 1954 để tránh bị ràng buộc pháp lý, bất lợi cho việc xâm lược và chia cắt Việt Nam trong chiến lược toàn cầu của họ. Nhưng chính họ cũng đã “nói hớ” và vô tình cho thấy rằng hiệp định Genève 1954 không hề là hiệp định chia đôi Việt Nam.
Nhà sử học, chính trị học George McTurnan Kahin và John W. Lewis trong sách The United States in Vietnam: An analysis in depth of the history of America’s involvement in Vietnam (Hoa Kỳ ở Việt Nam: Một phân tích chuyên sâu về lịch sử can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam), do Delta Books xuất bản năm 1967, đã cho biết: “Trong bản Tuyên ngôn đơn phương (Unilateral Declaration) của Hoa Kỳ về Hội nghị Genève không có chữ nào nói đến “Bắc Việt Nam” hay “Nam Việt Nam”. Tất cả những gì mà bên đại diện Mỹ nói đến là một Việt Nam “.
Những bằng chứng ở trên đã cho thấy hiệp định Genève 1954 không chia đôi đất nước, mà ngược lại chính là quy định việc thống nhất đất nước. Chính sự can thiệp và xâm lược miền Nam Việt Nam của Mỹ đã đưa đến sự chia đôi đất nước. Việc không có tổng tuyển cử và chia cắt Việt Nam là một sản phẩm của Mỹ. Còn danh từ “Nam Việt Nam” chỉ là một danh từ mang tính chất tuyên truyền giả dối mà người Mỹ dùng để gọi những chính quyền con đẻ của họ ở miền Nam Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét